“Bão lửa” Kachiusa Việt Nam và các loại pháo phản lực
Wednesday, April 3, 2013
Hệ thống pháo phản lực đã trở nên nổi tiếng trong chiến tranh thế giới thứ 2. Dàn pháo phản lực với sức hủy diệt khủng khiếp khiến quân Đức khiếp sợ được những người lính Xô Viết đặt một cái tên khá trìu mến Kachiusa cũng có mặt trong quân đội Việt Nam.
Kachiusa BM-13 đã thật
sự trở thành loại pháo phản lực bắn loạt vì nó mang đầy đủ các tính
năng kỹ chiến thuật của pháo binh: Kích thước nhỏ, đơn giản, có khả năng
trong cùng một lúc tiêu diệt nhiều mục tiêu trên một diện tích rộng và
có khả năng cơ động rất cao.
Sau năm 1945 lực lượng
vũ trang Xô Viết nhận được hàng loạt các hệ thống tên lửa phản lực khác
nhau, được sản xuất dựa trên kinh nghiệm của chiến tranh vệ quốc vĩ đại
như BM- 24 ( 1951) BM-14 200 mm 4 nòng trên xe BMD – 20 (1951) và 140 mm
16 nòng BM-14-16 (1958) hoặc loại pháo phản lực dàn 17 nòng RPU-14 trên
thân của pháo D-44.
Vào những năm đầu của
thập niên 1950x đã chế tạo và đưa vào thử nghiệm loại pháo có tầm bắn xa
và uy lực rất lớn Korsun, nhưng không sản xuất hàng loạt. Tất cả các
mẫu này đều chỉ là cải tiến dưới cái bóng của pháo phản lực Kachiusa
Kachiusa trên trường quốc tế ( BM-21 Grad)
Vào năm 1963, trong
biên chế trang bị của quân đội Xô Viết tiếp nhận hệ thống pháo phản lực
dàn thế hệ 2. Đó là pháo phản lực dàn BM-21 (Grad). Loại pháo phản lực
này cho đến tận ngày nay theo các thông số kỹ thuật được chế tạo cũng
chưa hề có loại nào sánh bằng. Các giải pháp kỹ thuật được áp dụng trong
quá trình thiết kế (Grad) được áp dụng cho tất cả các loại pháo phản
lực khác trên thế giới.
Ví dụ như phương án lắp
đặt các ống phóng tên lửa sao cho gọn và dễ thay thế, có thể sử dụng
ống phóng đạn 1 lần kiểu casset, đạn 122mm có thể có những biến thể như
đạn nổ phá, nhiệt áp, đạn điều khiển laser bán chủ động, đạn chống tăng
tự dẫn hồng ngoại tầm bắn cầu vồng, rải mìn.

Quan trọng hơn cả, đó
là pháo phản lực có khả năng cải tiến và nâng cấp rất cao. Trong 40 năm
sử dụng, tầm bắn của đạn tên lửa Grad tăng từ 20 km đến 40 km. Hệ thống
được nâng cấp và lắp đặt cho lực lượng đổ bộ đường không và lực lượng
hải quân.
Và năm 1965, trong vòng
3 tháng đã chế tạo loại pháo tên lửa vác vai hạng nhẹ Grad-P dành cho
lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam có tầm bắn 11 km. Những nòng pháo
H12 (tên gọi của Việt Nam) đã theo lực lượng đặc công, pháo binh dội lửa
xuống căn cứ quân sự, sân bay, bến cảng và đóng góp vào những chiến
công lừng lẫy của quân đội nhân dân Việt Nam.

Đạn pháo BM-21
Cho đến ngày nay, Grad
vẫn là hệ thống pháo phản lực hiệu quả nhất trên thế giới theo các thông
số kỹ chiến thuật, thông số về kinh tế và những tính chất logics chiến
trường. Grad được copy và sản xuất có lisence và không có lisence trong
nhiều nước.
Năm 1995, 32 năm sau
khi vũ khí được chế tạo, người Thổ Nhĩ Kỳ lại sản xuất hàng loạt cho
quân đội nước mình. Từ năm 1964, nhà thiết kế vũ khí Ganhitrev bắt đầu
thiết kế một mẫu pháo phản lực khác có uy lực mạnh hơn nhiều lần, và năm
1976, quân đội Xô Viết tiếp nhận lại pháo phản lực Uragan (bão táp) với
tầm bắn lên tới 35 km và các ống phóng đạn casset.
Không dừng lại ở đó,
cuối những năm 60x các chuyên gia của nhà máy NPO (Splav) bắt đầu thiết
kế loại pháo phản lực cỡ nòng 300mm tầm bắn là 70 km. Nhưng thiết kế
không được chấp nhận vì điều kiện kinh tế, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Nguyên soái Gretrko nói thẳng với những cán bộ quân đội yêu thích loại
pháo phản lực ở Bộ tư lệnh pháo binh rằng, ngân sách của nhà nước Xô
Viết không phải là không có đáy. Vì thế, việc sản xuất loại pháo phản
lực thế hệ thứ 3 này bị kéo dài đến 20 năm

Năm 1987, Pháo phản lực Smertr «Смерч» 300mm mới chính thực được biên chế vào quân đội Xô Viết.
– Tầm bắn tăng lên đến 90 km;
– Hệ thống bản đồ địa hình chỉ thị hỏa lực được thực hiện thông qua hệ thống định vị mục tiêu Glonass.
– Đạn pháo phản lực vừa
bay vừa quay được điều khiển bằng hệ thống động cơ gas phụt làm bánh
lái, điều khiển bằng hệ thống điện tử trên đầu đạn.
– Smertr «Смерч» được nạp đạn hoàn toàn tự động, đạn được nạp sẵn trong các thùng chứa và ống phóng sử dụng 1 lần.

Đạn pháo phản lực Smertr.
Đây là loại vũ khí có
sức hủy diệt mạnh nhất thế giới không tính vũ khí hạt nhân. Một khẩu đội
sáu xe Smertr có khả năng chặn đứng 1 sư đoàn đang tiến công hoặc phá
hủy hoàn toàn một thành phố. Smertr được thiết kế hoàn hảo đến nỗi các
chuyên gia quân sự cho rằng đã quá thừa thãi khi sử dụng Smertr.
Nhưng tại nhà máy HPO (
Splav) đã có một phiên bản mới hơn với tên là Taiphun «Тайфун». Không
ai dám dự đoán nó sẽ thế nào, nhưng tất cả phụ thuộc vào ngân sách, mà
ngân sách quốc phòng Nga trong giai đoạn này còn khó khăn hơn cả thời kỳ
của Nguyên soái Gretrkov.
Vũ khí đa dụng của Mỹ
Sau đại chiến thế giới
lần thứ 2 Mỹ không chú trọng phát triển pháo phản lực. Theo ý kiến của
các chuyên gia quân sự phương Tây, pháo phản lực không có vai trò đáng
chú ý trên chiến trường hiện đại trong đại chiến thế giới thứ 3 nếu nó
xảy ra. Đến những năm 1980x pháo phản lực của Mỹ đã tụt hậu so với Liên
Xô.
Trong biên chế quân đội
Mỹ lúc đó sử dụng loại pháo tên lửa của Đức Nebelvelfer, ví dụ như loại
127 mm Zunhi. Sử dụng loại đạn tên lửa phóng từ máy bay. Năm 1976, Công
ty Lockheed Martin Missiles and Fire Control phát triển hệ thống pháo
phản lực MLRS. Năm 1983 hệ thống này được biên chế vào cho quân đội Mỹ.
Hệ thống MLRS có nhiều ưu điểm hơn hẳn hệ thống pháo phản lực của Liên
Xô Uragan với khả năng tác chiến độc lập và khả năng tự động hóa rất
cao.

Pháo phản lực Mỹ MLRS.
Hệ thống phóng của MLRS
không có ống phóng xếp cố định trên giá quay trên xe mà được thay bằng
hộp ống phóng bọc giáp thay thế giống nhau, do đó MLRS có thể sử dụng 2
loại đạn 227mm và 236 mm. Toàn bộ hệ thống điều khiển tập trung trên 1
xe, do đó có thể sử dụng dễ dàng như một đơn vị chiến đấu độc lập. Thân
xe được sử dụng là thân xe M2 Bredly cho phép nâng cao khả năng cơ động
và tính toán phần tử bắn trên mọi địa hình chiến trường. Pháo phản lực
MLRS được cung cấp và là vũ khí chủ lực của khối quân sự NATO.
Giai đoạn những năm
1990 – 2000 quân đội phát triển thêm nhiều loại pháo phản lực với nhiều
mục đích sử dụng như РСЗО RADIRS, sử dụng đạn 70-mm НУРС kiểu HYDRA. Đây
là loại pháo phản lực nhiều nòng nhất trên thế giới, số lượng nòng lên
đến 114. Hoặc loại pháo phản lực 6 nòng dành cho lực lượng đổ bộ, sử
dụng đạn 227 mm ARBS.

Đạn pháo MLRS.
Pháo phản lực Trung Quốc
Có thể điều xảy ra là
bất ngờ, nhưng hiện nay Trung Quốc là nước phát triển vũ khí pháo phản
lực mạnh nhất sau Nga, có thể nói rằng sự phát triển pháo phản lực của
Trung Quốc bắt đầu sau cuộc xung đột biên giới Nga – Trung trên đảo
Damaski.
Nga sử dụng pháo phản
lực Grad đã đem lại cho Quân giải phóng nhân dân Trung Hoa một ấn tượng
quá đặc biệt bởi số thương vong nặng nề. Nhưng thực tế việc phát triển
pháo phản lực của Trung Quốc phát triển sớm hơn. Loại pháo đầu tiên là
pháo dàn 107mm xe kéo mang tên Type 63 được biên chế trong quân đội
Trung Quốc vào năm 1963. Loại vũ khí rẻ và tương đối hiệu quả này được
xuất khẩu đi rất nhiều nước như Syria, Anbania, Campuchia...
Loại pháo hiện đại phổ
dụng nhất của Trung Quốc hiện nay là loại pháo dàn 122 mm 40 nòng type
81 trên thực tế là copy của BM-21 (Grand). Loại pháo phản lực này được
đưa vào sản xuất hàng loạt và biên chế vào các lữ đoàn pháo phản lực của
Trung Quốc.
Sau này, Trung Quốc
phát triển loại pháo phản lực 122mm trên thân xe bánh xích Type 89 và
trên thân xe bánh hơi được địa hình Tiema SC2030 «Тype -90» Pháo phản
lực loại này được hoàn thiện hơn bằng hệ thống tự động điều khiển hỏa
lực và Trung Quốc đã chào bán loại vũ khí này rất mạnh trên thị trường
vũ khí thế giới. Giai đoạn sau này, PLA phát triển mạnh các loại pháo
phản lực khác, thông số kỹ chiến thuật hơn nhiều so với loại ban đầu.

Pháo phản lực WS-1 Trung Quốc.
40 nòng, – WS-1, 273-mm
8-nòng WM-80, 302-mm 8-nòng WS-1, Loại pháo có cỡ nòng lớn – 400-mm
6-nòng WS-2. Từ những thông tin trên, rõ ràng Trung Quốc đang trở thành
cường quốc về pháo phản lực và theo thông số công báo, còn hơn cả loại
pháo phản lực nổi tiếng Smertr 300mm 10 nòng với tầm bắn là 100 km.
Trung Quốc cho rằng trong các cuộc chiến tranh dành ảnh hưởng trên
trường quốc tế, pháo phản lực thật sự là một loại vũ khí rất mạnh.
Các nhà sản xuất châu Âu và châu Á
Không chỉ có những
cường quốc quân sự mới chế tạo và sản xuất các loại pháo phản lực. Nhiều
nước khác cũng đầu tư chế tạo pháo phản lực có uy lực rất mạnh và phát
triển dưới rất nhiều mẫu và tên gọi khác nhau. Đầu tiên là CH Liên bang
Đức, vào năm 1969 đã biên chế vào lực lượng quân đội Đức loại pháo phản
lực 110 mm 36 nòng LARS, hiện nay có hai phiên bản cải tiến là LARS-1 và
LARS-2.

Pháo phản lực của Đức.
Sau Đức là lực lượng
phòng vệ Nhật bản. Vào năm 1973 người Nhật đã chế tạo thành công pháo
phản lực 130mm và được biên chế vào lực lượng quân sự Nhật bản với mã
hiệu Type -95. • Đồng thời người Tiệp chế tạo xe pháo tự hành phản lực
PM-70-40 với cỡ nòng 122 mm, có thiết bị nạp đạn tự động. Một phiên bản
khác của pháo phản lực là 2 hệ thống phóng mỗi hệ thống 40 ống phóng
trên 1 thân xe.
Vào những năm 1970x Ý
cũng chế tạo hệ thống FIROS cỡ nòng 70-mm và 122-mm, và – Teruel cỡ nòng
140 mm, với pháo phòng không trên nóc xe. Từ những năm 80x Nam Phi cũng
sản xuất loại pháo phản lực 127 mm 24 nòng Valkiri Mk 1.22
(«Валькирия»), đồng thời thiết kế loại pháo phản lực dành cho chiến
trường cân chiến Mk 1.5.
Là một nước mà nền công
nghiệp quốc phòng không phát triển, nhưng Brazil cũng đã chế tạo pháo
phản lực vào năm 1983 Astros-2, có những giải pháp kỹ thuật rất thú vị
và hiệu quả. Loại pháo phản lực này có thể bắn các loại đạn từ 127 mm
đến 300 mm. Đồng thời Brazil cũng sản xuất loại pháo phản lực SBAT – Hệ
thống ống phóng đơn giản để bắn đạn phản lực không quân (rocket) НУРС.
Israel vào năm 1984 đã
tiếp nhận vào biên chế pháo phản lực ЛАР-160Ю trên thân xe tăng hạng nhẹ
của Pháp АМХ-13 với 2 dàn phóng 18 ống một dàn.
Nam Tư ( cũ) phát triển
pháo phản lực 262-mm M-87 Orkan, 128-мм M-77 Oganj với 32 nòng và hệ
thống nạp đạn tự động tương tự như hệ thống PM-70. Đồng thời sản xuất
loại pháo hạng nhẹ theo lisence Type 63 của Trung Quốc. Dù chương trình
sản xuất loại súng này đã dừng, nhưng trong biên chế của các lực lượng
liên quan vẫn còn được sử dụng và tham gia tích cực trong các cuộc xung
đột khu vực
CHDCND Triều Tiên đã
copy đơn giản hệ thống Uragan của Liên xô, chế tạo pháo phản lực 240 mm
Type 1985/89. Sau đó, loại pháo phản lực này được bán tràn lan trên thị
trường vũ khí giá rẻ, sau đó họ đã bán giấy phép cho Iran và hệ thống
lại được thiết kế lại và mang tên mới là Fajr do tổ hợp công nghiệp Iran
Shahid Bagheri Industries sản xuất. Đồng thời, Iran cũng sản xuất hệ
thống Аrash với30 hay 40 nòng pháo cỡ đạn 122mm, rất giống với pháo phản
lực Grad.
Arab từ năm 1981 đã phát triển hệ thống Sаkr («Сокол»), 30- nòng, bản copy từ hệ thống Grad
Phát triển muộn hơn cả
là Ấn Độ với pháo phản lực 214mm 214-mm Pinaka, là thành quả của sự cố
gắng nhiều năm của nền Công nghiệp quốc phòng. Pháo được thiết kế phù
hợp với điều kiện chiến trưởng ở Ấn Độ nhằm thực hiện các nhiệm vụ trên
các địa hình đồi núi phức tạp, có vách núi dựng đứng, có vách nghiêng và
bắn trên địa hình bị đồi núi che khuất. Thử nghiệm được tiến hành vào
năm 1999 và ngay tức khắc mùa hè năm đó loại pháo trên đã tham gia xung
đột khu vực Ấn Độ, Pakistan tại Kasmia và Jammu.
Vũ khí của quá khứ, hiện tại và tương lai
Nhiều chuyên gia quân
sự cho rằng pháo phản lực đã đi vào dĩ vãng, khi các nước đều nhằm đến
các loại vũ khí công nghệ cao, thông minh, hiện đại và có độ chính xác
rất cao. Nhưng trong các cuộc xung đột khu vực, hỏa lực của pháo phản
lực vẫn phát huy uy lực cao. Và pháo phản lực nếu xét góc độ giá thành
và độ phức tạp trong thiết kế dành cho chiến tranh hiện đại vẫn là một
sự lựa chọn tốt.
Với các nước phát
triển, pháo phản lực là loại vũ khí rất quan trọng dành cho tác chiến
cấp chiến dịch, với sự cải tiến mạnh mẽ của đầu đạn (tự tìm mục tiêu,
dẫn đường laser bán chủ động, tự tìm mục tiêu, chất nổ nhiệt áp).
Và các ống phóng huyền
thoại của Kachiusa vẫn là loại vũ khí quan trọng trong các cuộc chiến
tranh và xung đột khu vực. Ví dụ lực lượng Hezbolla đã dùng pháo hỏa
tiễn tấn công không chỉ quân đội mà còn bắn vào các khu định cư Israel.
Với các nước đã có hệ
thống pháo phản lực như Grad, việc nâng cấp đạn sẽ đưa Grad lên tầm bắn
mới, sức phá hủy cao hơn và độ chính xác lên tới 92% trên một mục tiêu
kể cả xe tăng hiện đại.
Pháo phản lực đã nhường
ngôi 'vua chiến trường' cho tên lửa, nhưng nếu nói để chúng nghỉ hưu
vẫn còn quá sớm. Đặc biệt với các nước đang phát triển và còn yếu về
công nghiệp quốc phòng, pháo phản lực Grad và đạn pháo 122mm vẫn là loại
vũ khí hết sức hiệu quả.
Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền phong
Tin liên quan
XEM TRÊN MOBILE
No comments:
Post a Comment